×

Warning

This article or modules on this page were created by a demo user account which is no longer in existence.
Please edit the article and assign a new user

Chúa Nhật, Tuần XIII Thường Niên, Năm C

SỐNG LỜI CHÚA

TIN MỪNG : Lc 9,51-62

Đức Giê-su nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem. Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng : “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không ?” Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.

Đọc thêm...

Thứ Tư, Tuần XIII Thường Niên, Năm C

Thứ Tư, Tuần XIII Thường Niên, Năm C

THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ, TÔNG ĐỒ. Lễ trọng.

 SNG LI CHÚA

TIN MNG : Mt 16,13-19

Anh là Phê-rô, Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

Một hôm, khi Đức Giê-su đến miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng : “Người ta nói Con Người là ai ?” Các ông thưa : “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, người khác lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” Đức Giê-su lại hỏi : “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ?” Ông Si-môn Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đức Giê-su nói với ông : “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời : dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy ; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.”

Đọc thêm...

Ai là người thân cận của tôi?

TIN MỪNG : Lc 10,25-37

Ai là người thân cận của tôi ?

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

Một hôm, có người thông luật kia muốn thử Đức Giê-su mới đứng lên hỏi Người rằng : “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” Người đáp : “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?” Ông ấy thưa : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”

Tuy nhiên, ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng : “Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” Đức Giê-su đáp : “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới chỗ nạn nhân, thấy vậy thì động lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu xức vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói : “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.” Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” Người thông luật trả lời : “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

GOSPEL : LK 10:25-37

There was a scholar of the law who stood up to test him and said,
"Teacher, what must I do to inherit eternal life?"
Jesus said to him, "What is written in the law?
How do you read it?"
He said in reply,
"You shall love the Lord, your God,
with all your heart,
with all your being,
with all your strength,
and with all your mind,
and your neighbor as yourself."
He replied to him, "You have answered correctly;
do this and you will live."

But because he wished to justify himself, he said to Jesus,
"And who is my neighbor?"
Jesus replied,
"A man fell victim to robbers
as he went down from Jerusalem to Jericho.
They stripped and beat him and went off leaving him half-dead.
A priest happened to be going down that road,
but when he saw him, he passed by on the opposite side.
Likewise a Levite came to the place,
and when he saw him, he passed by on the opposite side.
But a Samaritan traveler who came upon him
was moved with compassion at the sight.
He approached the victim,
poured oil and wine over his wounds and bandaged them.
Then he lifted him up on his own animal,
took him to an inn, and cared for him.
The next day he took out two silver coins
and gave them to the innkeeper with the instruction,
'Take care of him.
If you spend more than what I have given you,
I shall repay you on my way back.'
Which of these three, in your opinion,
was neighbor to the robbers' victim?"
He answered, "The one who treated him with mercy."
Jesus said to him, "Go and do likewise."

SUY NIỆM

LÒNG BÁC ÁI

“Tôi không làm việc bác ái được vì tôi không có tiền! Chỉ có tiền mới bác ái sao? - Bác ái của nụ cười, bác ái của bắt tay, bác ái của thông cảm, bác ái của thăm viếng, bác ái của cầu nguyện” (Đường Hy Vọng, 741).

Bác ái với anh em mình là dấu chỉ để mọi người nhận biết Đức Kitô. Người môn đệ chân thực của Chúa là người thực thi bác ái trong gia đình, nơi trường học, giáo xứ, nơi làm việc; bác ái, yêu thương mọi người họ gặp gỡ. Bác ái không chỉ là trao một món tiền hay một ít đồ cho người khác; nhưng còn là những nụ cười thân ái, cảm thông và những lời cầu nguyện cho tha nhân. Khi chúng ta yêu thương người khác, con tim sẽ mách bảo chúng ta phải làm gì.

Người Samari đã thực thi lòng nhân hậu m à không phân biệt tôn giáo, giai cấp hay thù đ ịch, thậm chí bất chấp cả hiểm nguy. Ông là t ấm gương mà Chúa Giêsu đã trưng dẫn cho mỗi người chúng ta bắt chước. Chúa ban cho chúng ta Thánh Thần của Người, giúp chúng ta mến Chúa và yêu người. Với con tim tự do và quảng đại, chúng ta hãy mở lòng đón nhận hồng ân ấy, hầu luật yêu thương được thể hiện trong suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta.

(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)

LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY

Lạy Chúa, xin dùng Thánh Thần tình yêu của Chúa biến đổi tâm hồn chúng con. Xin cho tư tưởng của chúng con phù hợp với tư tưởng của Chúa, trái tim chúng con cùng nhịp đập với trái tim Chúa.

TU ĐỨC SỐNG ĐẠO

Đức Giám Mục Địa Phận và Đấng Bản Quyền

Địa phận là Giáo Hội riêng (can 368), là phần Dân Thiên Chúa được trao cho một Giám mục hướng dẫn với sự cộng tác của Linh mục đoàn (Can 369).

1. Đức Giám Mục địa phận là chủ chăn của địa phận (Can 376).

Ngài có quyền hành pháp, lập pháp va tư pháp chiếu theo Luật (Can 391), đích thân thi hành quyền lập pháp (không được ủy quyền cho ai, quyền hành pháp có thể nhờ vị Tổng đại diện hoặc Đại diện Giám mục chiếu theo luật, còn quyền tư pháp Ngài có thể nhờ vị Đại diện Tư pháp (Can 391). Trong mọi công việc pháp lý của địa phận, Đức Giám Mục địa phận đứng tên thay mặt cả địa phận (Can 393).

Ngài phải cư ngụ trong địa phận dầu đã có Đức Giám Mục phó hoặc Phụ tá mặc lòng, trừ trường hợp đi Ad limina, đi họp Công đồng, họp Thượng Hội đồng Giám mục, họp Hội đồng Giám mục hoặc vì nhiệm vụ khác đã được ủy nhiệm cách hợp pháp. Với lý do tương tự khác, Ngài chỉ vắng mặt địa phận không quá một tháng liên tục hay đứt quãng. Vắng mặt quá sáu tháng cách bất hợp pháp, Đức Tổng Giám mục Giám tỉnh báo cho Tòa Thánh biết. Nếu Đức Tổng Giám cũng vắng như vậy, Đức Giám Mục thâm niên trong Giáo tỉnh phải báo cáo (Can 395).

Hằng năm Đức Giam mục địa phận đi kinh lý một số giáo xứ, giáo họ để ít là trong vòng 5 năm, ngài đã kinh lý toàn địa phận. Bị cản trợ cách hợp pháp, ngài nhờ Đức Gíam mục phó hoặc Phụ tá hoặc Tổng đại diện hoặc Đại diện Giám mục hoặc Linh mục nào khác đi thay (Can 396).

Cứ 5 năm Đức Giám Mục địa phận làm bản tường trình về Địa phận gửi cho Tòa thánh theo mẫu của Tòa thánh quy định (Can 399). Cũng là năm Ngài về Roma (Ad limina) (Can 400).

2- Đấng Bản quyền địa phương (Ordinarius loci)

Gốm có Đức Giám Mục địa phận (Đức Cha chính), vị Tổng Đại diện và Đại diện Giám mục. Đức Cha phó hoặc Đức Cha phụ tá khi kiêm chức Tổng đại diện hoặc Đại diện Giám mục mới thuộc Đấng Bản quyền địa phương (Can 134,1 và 2).

Theo luật, những gì nói tới quyền dành cho Đức Giám Mục địa phận thì phải hiểu là chỉ Đức Giám Mục địa phận (Đức Cha chính có quyền đó thôi, còn nói tới Đấng Bản quyền địa phương thì bao gồm Đức Cha chính, vị Tổng Đại diện hoặc Đại diện Giám mục. Khi có phép đặc biệt vị Tổng đại diện hoặc Đại diện Giám mục cũng đươc sử dung quyền của Đức Giám Mục địa phận (Can 134, 3)

Ta lưu ý điều luật nói về xin phép Bản quyền địa phương: (Can 65):

Không ai đươc xin ơn nơi Đấng thường quyền khác ơn nơi Đấng thường quyền mình từ chối, trừ khi đã nhắc lại sự từ chối trên, Đấng thường quyền kia đừng ban ơn trừ khi đã đươc Đấng thường quyền trước cho biết lý do khước từ (Can cũ 44), các nhà Luật học cho rằng đây chỉ nói về tính hợp pháp (lecitas) chứ không nói về tính thành sự.

Thí dụ: Xin phép chuẩn nơi Đức Giám Mục của mình mà mình có gia cư bị từ chối, qua địa phận khác xin phép mà mình có bán gia cư, phải trình rõ mình đã bị Đức Giám Mục nhà từ chối. Và Đức Gíam mục đó chỉ ban sau khi đã hỏi Đức Giám Mục đã từ chối lý do khước từ.

Ơn đã bị vị Tổng đại diện (vicaire général) hoặc Đại diện Giám mục (vicaire épiscopal) khước từ, vị đại diện khác của cùng một Giám mục khác ban không thành sự dù vị Đại diện trước đã cho biết lý do khước từ.

Ơn đã bị Tổng Đại diện hoặc Đại diện Giám mục khước từ, lên xin Đức Giám Mục địa phận, ngài ban ơn đó không thành sự nếu người xin không nhắc lại đã bị khước tử. Ơn đã bị Đức Giám Mục địa phận khước từ, lên xin Tổng Đại diện hoặc đại diện Giám mục, các ngài ban không thành sự dù có nhắc lại đã bị từ khước, trừ khi Đức Giám Mục ưng thuận (Can 65).

3. Đức Giám Mục Phó

Có thể do Đức Giám Mục địa phận xin, hoặc Tòa Thánh tự mình đặt một Giám mục phó với những năng quyền đặc biệt để giúp Đức Giám Mục địa phận với quyền kế vị (x Can 403,3), đề nghị lên Tòa Thánh ba vị, Đức Khâm sứ điều tra cho ý kiến để Tòa Thánh lựa chọn (Can 377,3).

Đức Giám Mục phó nhận chức bằng cách đích thân hoặc nhờ đại diện trình Tông thư bổ nhiệm lên Đức Giám Mục địa phận và Hội đồng cố vấn có sự hiện diện của vị Chưởng ấn ghi sổ là xong (Can 404,1). Nếu Đức Giám Mục địa phận bị cản trở hoàn toàn thì Đức Giám Mục phó trình Tông thư bổ nhiệm lên Hội đồng cố vấn có mặt Chưởng ấn để ghi sổ là được (Can 404,3).

Luật khuyên Đức Giám Mục địa phận trao chức Tổng Đại diện cho Đức Giám Mục phó (Can 406,1) và Đức Giám Mục địa phận nên ủy thác những công việc mà theo luật đòi phải trao quyền đặc ủy viên cho vị Tổng đại diện (Đức Giám Mục phó) trước những vị khác (406, 1).

Khi Tòa Giám mục trống ngôi (vì Đức Giám Mục địa phận qua đời hoặc từ chức mà đã được Tòa Thánh chấp nhận, hoặc bị thuyên chuyển hoặc bị cách chức mà lệnh đã được chuyển đạt tới tay Đức Giám Mục địa phận (Can 416), Đức Giám Mục phó trở thành Giám mục địa phận miễn là ngài đã nhận chức Giám mục Phó cách hợp luật (Can 409, 1).

4. Đức Giám Mục phụ tá

Vì nhu cầu mục vụ của địa phận, Đức Giám Mục địa phận có thể xin Tòa Thánh một hay nhiều Giám mục phụ tá giúp mình (Can 403,1) (gửi về Tòa Thánh để cử ít là ba vị xưng đáng làm Giám mục phụ tá (Can 377,4). Đức Giám Mục phụ tá không có quyền kế vị (Can 403,1)

Đức Giám Mục phụ tá nhận chức bằng cách trình Tông thư bổ nhiệm lên Đức Giám Mục địa phận, có mặt vị Chưởng ấn ghi vào sổ là được (Can 402,2). Nếu Đức Giám Mục địa phận bị hoàn toàn bị cản trợ, Đức Giám Mục phụ tá chỉ cần trình Tông thư bổ nhiệm lên Hội đồng Cố vấn có mặt vị Chưởng ấn ghi vào sổ là xong (Can 403,3).

Luật khuyên Đức Giám Mục địa phận trao chức Tổng Đại diện hoặc Đại diện Giám mục cho Đức Giám Mục phụ tá và trao nhũng công việc luật đòi hỏi có quyền đặc ủy riêng cho vị Tổng đại diện (Đức Giám Mục phụ tá) trước các vị khác (Can 406,1).
Khi Tòa Giám mục trống ngôi, Đức Giám Mục phụ tá cai quản địa phận cho đến khi có giám quản địa phận (Can 419). Nếu Đức Giám Mục phụ tá không được chỉ định làm giám quản địa phận thì ngài vẫn còn quyền và những năng quyền do chức Tổng đại diện hoặc đại diện Giám mục cho đến khi tân Giám mục địa phận nhận chức (Can 409,2).

5. Tòa Giám mục trống ngôi

a. Do Đức Giám Mục địa phận qua đời. Những gì vị Tổng đại diện hoặc đại diện Giám mục làm vẫn có hiệu lực cho đến khi được tin chắc chắn Đức Giám Mục qua đời (Can 416,417).

b. Do Đức Giám Mục từ chức và đã được Tòa Thánh chấp nhận (Can 416).

c. Do bị thuyên chuyển từ khi nhận được lệnh thuyên chuyển cho tới khi nhận địa phận mới, Đức Giám Mục đó trở thành vị Giám quản và trong vòng hai tháng phải đi tới nhiệm sở mới (Can 416, 418). Chức vụ Tổng đại diện, đại diện Giám mục chấm dứt khi được tin Đức Giám Mục được thuyên chuyển (Can 418,2). Ngày ngài đi nhận nhiệm sở mới, Tòa Giám mục đó trống ngôi (Can 418).

d. Bị cách chức mà lệnh đã chuyển đạt tới Đức Giám Mục.

Khi Tòa Giám mục trống ngôi, Đức Giám Mục phụ tá tạm quyền cai quản. Nếu có nhiều vị Giám mục phụ tá, thì ai thâm niên Giám mục sẽ cai quản địa phận cho đến khi đặt Giám quản địa phận.

Không có Giám mục phụ tá, Hội đồng cố vấn cai quản trừ khi Tòa Thánh định sự khác (Can 419, 421,1).

Lm. Fx. Nguyễn Hùng Oánh

Đọc thêm...
Subscribe to this RSS feed