(1814 - 1835)

AnreTranVanThong

Trong vòng tay người mẹ

Trong hành tích thánh Anrê Trần Văn Trông, người quân nhân xứ Huế, ta thấy nổi bật lên chân dung của một bà mẹ. Đức Giáo Hoàng Lêo XIII ca tụng bà đã thể hiện lòng can trường “theo gương Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo”. Như Đức Maria dưới chân Thánh Giá dâng hiến Người Con Yêu Dấu, bà mẹ đó cũng có mặt trong cuộc hành quyết để hiến dâng người con trai duy nhất của mình. bà đi bên cạnh con, không than khóc không sầu buồn, trái lại còn bình tĩnh vui vẻ khuyên con hãy bền chí đến cùng.

Khi đầu Anrê Trông rơi xuống, bà mạnh dạn bước vào pháp trường kêu lớn tiếng trước mặt các quan: “Đây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái dầu của con tôi”. Nói xong, bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người con yêu quý, rồi đêm về mai táng trong nhà.

 

Tuổi xuân ước mơ.

Anrê Trần Văn Trông sinh năm 1814 trong một gia đình Công Giáo ở Kim Long, Phú Xuân (Huế). Cậu là con trai duy nhất trong nhà, thế mà năm 15 tuổi, người cha lại mất sớm, khiến gia đình lâm cảnh mẹ góa con côi. Để giúp mẹ mưu sinh, Anrê Trông đành giã từ sách đèn, theo chân bà con lối xóm về họ Thợ Đúc dệt tơ cho hoàng gia. Là người ngay thật, cậu không ăn bớt của công, luôn chăm chỉ làm việc và không ưa những chuyện gây gỗ, bất hòa. Mỗi buổi chiều, sau những giờ lao động mệt mỏi, cậu thường vác cần câu đến ngồi bên bờ sông Hương xanh biếc, để được gần gũi với thiên nhiên. Sử gia Rodriguez đã diễn tả tâm trạng của cậu qua những vần thơ sau (Martirologie III, pp. 158 - 159):

“Ôi êm đềm cảnh thiên nhiên trầm lặng,

Dưới ngàn cây râm mát thoảng hương hoa,

Nước lung linh nghe thanh thản tâm hồn,

Sông in dáng bóng non xanh xanh biếc.”

Nhưng cuộc đời êm ả đó không kéo dài được lâu mãi. Đồng lương ít ỏi của người thợ dệt tơ không đủ nuôi sống gia đình. Năm 20 tuổi, Anrê Trông đành giã từ mẹ lên đường nhập ngũ.

 

Xông vào cuộc chiến

Sau tám tháng phục  vụ trong quân đội, tháng 11.1834, triều đình ra lệnh những binh sĩ Công Giáo phải ra trình diện. Không chút e dè, Anrê Trông với 12 đồng đội cùng ở khu Thợ Đúc đến “ra mắt” quan. Quan yêu cầu các anh phải tuân lệnh nhà vua bỏ đạo và đạp lên Thánh Giá. Cả 13 chiến sĩ Công Giáo đều cương quyết khước từ. Các quan bèn dùng biện pháp tra tấn dã man. lần lượt 12 người bỏ cuộc, chỉ còn mình Anrê Trông vẫn trung kiên đến cùng. Quân lính trói anh lại khiêng qua Thánh Giá, nhưng anh co chân lên quyết không xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống qua trại giam. Các quan kết án tử hình, nhưng còn giam hậu, nghĩa là chưa xử ngay.

Suốt một năm bị giam trong ngục, Anrê Trông chịu nhiều điều cơ cực khổ sở, nhưng niềm tin của anh qua những thử thách đó càng ngày càng vững mạnh. Anrê sốt sắng cầu nguyện và đặc biệt phó thác đời mình cho Đức Mẹ, xin Chúa vì lời Mẹ Maria chuyển cầu ban cho ơn trung tín đến cùng. Những món qùa tiếp tế nhận được, anh chia sẻ cho các bạn tù và lính canh ngục, nên được họ quý mến. Cũng chính nhờ đó, anh có cơ hội đặc biệt để đi xưng tội, rước lễ và thăm mẹ.

Khi biết tin có cha Ngôn đang hoạt động ở Phú Xuân, anh Trông liền xin viên cai ngục và được phép về nhà một ngày dưới sự giám sát của một người lính. Nhờ đã dò hỏi rõ nơi ở của vị linh mục, Anrê Trông và người lính chèo thuyền đến bến đò kia vào giữa trưa. Lúc đó, mọi người dân chài đã lên bờ ăn uống nghỉ ngơi. Anh Trông liền bước qua thuyền của cha Ngôn, đẩy thuyền trôi nhẹ ra giữa dòng. Hai người nhỏ to “Tâm sự” và anh quỳ xuống lãnh phép lành tha tội. Xưng tội xong, anh ngỏ ý xin rước lễ, cha Ngôn hẹn anh sáng hôm sau tại Kẻ Văn. Thế rồi anh và người lính tiếp tục chèo thuyền về Kim Long. Hai người lên bờ và ngủ tại nhà mẹ một đêm. Tả sao cho siết niềm vui của hai mẹ con được tái ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ này. mẹ anh đã hết lời khích lệ động viên anh kiên tâm vì đức tin.

Tảng sáng hôm sau, anh Trông và người lính gác vội vã chèo thuyền đến điểm hẹn. Gặp lại vị “khách quý”, anh liền quỳ xuống lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Cha Ngôn chúc lành: “Ước gì Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ gìn giữ con đến cuộc sống muôn đời”. Anh thưa: “Amen”. Rồi trong niềm hân hoan vì hồng phúc mới lãnh nhận, anh vui vẻ trở về trại giam như lời hứa với viên cai ngục.

 

Nỗi lòng hai mẹ con

Sau một năm tù, không hy vọng gì Anrê Trông thay đổi ý kiến, các quan quyết định ngày xử là 28.11.1835. Sáng hôm đó, người chiến sĩ đức tin gặp được người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không ? Anrê Trông trả lời: “Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết”.

Nhưng thực tế, người anh họ chưa kịp nhắn lại. Bà mẹ Anrê Trông khi hay tin con bị đem đi xử, liền vội vã ra đón con ở đầu chợ, nơi con sắp đi qua, gặp con, bà chỉ hỏi một câu vắn tắt: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay con”. Tấm lòng người mẹ là thế đấy. Bà biết rõ con của mình đủ can đảm chịu mọi đau đớn, giờ đây bà chỉ lo cho con về đức công bình.

Khi được con cho biết không vướng gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. đến nơi xử, sau khi quân lính tháo gông xiềng, người chiến sĩ đức tin liền đón lấy, trao cho người lính cạnh bên và nói: “Xin nhờ anh đưa dùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm”. Mẹ anh đứng gần nên nghe rất rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa.

Chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm, dầu vị tử đạo 21 tuổi rơi xuống. Bà mẹ anrê Trông chứng kiến ngay từ giây phút đầu tại pháp trường, bà thỏa lòng dù rất khổ đau, bước ra đòi viên chỉ huy trao thủ cấp con bà. Bọc trong vạt áo rồi ghì chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lắp lại: “Ôi con yêu quý của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ nhé !”.

Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn người chiến sĩ anh hùng Anrê Trông lên hàng Chân Phước. Ngài không ngớt lời ca ngợi mẫu gương của bà mẹ hào hùng, đã họa lại gần trọn vẹn hình ảnh Đức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo xưa trên đỉnh Can-vê. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.